Quản lý an toàn công nghệ là hoạt động quản lý nhằm phòng ngừa, giảm thiểu, đối phó và phục hồi đối với các rò thoát nghiêm trọng hóa chất hay năng lượng từ các công trình công nghệ. [1]
Những bài học lịch sử
Quản lý an toàn công nghệ khác với quản lý an toàn sức khỏe nghề nghiệp.
Trong vài chục năm gần đây, quản lý an toàn sức khỏe nghề nghiệp đã tiến được những bước rất dài, điều kiện làm việc, môi trường làm việc của người lao động ngày càng được nâng cao, người sử dụng lao động ngày càng nhận thức được trách nhiệm trong công tác an toàn sức khỏe và môi trường, các luật và quy định ngày càng chặt chẽ. Do đó các tai nạn nghề nghiệp như ngã cao, vật rơi, hay va chạm với máy móc…ngày càng giảm.
Tuy nhiên, các sự cố công nghệ thì trái lại, những năm gần đây số sự cố thảm khốc không hề giảm, với quy mô hậu quả càng ngày càng lớn, sau đây là vài ví dụ.
- 20 tháng 4, 2010. Vụ tràn dầu DeepWater Horizon, vịnh Mexico với khoảng 4,9 triệu thùng dầu thô ra biển, là vụ tràn dầu lớn nhất lịch sử ngành dầu khí, 11 người chết, tới năm 2018 riêng số tiền để làm sạch và tiền phạt môi trường mà công ty BP phải nộp cho Chính Phủ Hoa kỳ là 65 tỷ đô la. [2]
- 12 tháng 8, 2015. Loạt vụ nổ tại kho hóa chất ở Thiên Tân, Trung Quốc, 173 người chết (trong đó có 104 là lính cứu hỏa) và hơn 800 người mất tích và bị thương [3],
- 7 tháng 5, 2020. Vụ rò khí tại nhà máy hóa chất LG Polymer ở Andhra Pradesh, Ấn Độ làm 11 người chết và 1000 người bị thương[4]
- 4 tháng 8, 2020. Vụ nổ tại một kho hóa chất ở cảng Beirut, Li Băng làm ít nhất 207 người chết, 7500 người bị thương, thiệt hại khoảng 15 tỷ USD tài sản và được xem là vụ nổ phi hạt nhân lớn nhất lịch sử nhân loại. [5].
Trong kết luận điều tra của Ban An toàn Hóa chất Hoa kỳ (CSB) về sự cố tràn dầu DeepWater Horizon, CSB tuyên bố “BP và nhà thầu khoan Transocean đã tập trung vào các vấn đề về an toàn nghề nghiệp như là tỷ lệ tai nạn của người lao động hơn là các vấn đề an toàn rộng hơn liên quan đến an toàn công nghệ khoan sử dụng giàn khoan phức hợp”. [6]
Theo Tiến sĩ Rafael Moure-Eraso, chủ tịch CSB “Một loạt điều tra sự cố của CSB cho thấy các doanh nghiệp tập trung vào tỷ lệ tai nạn cá nhân trước mắt trong khi bỏ qua các vấn đề đáng ngại về an toàn công nghệ – như là hiệu quả của các biện pháp chống rò rỉ hóa chất, độ tin cậy của các van đóng khẩn cấp, khả năng kích hoạt các van giảm áp, hay việc tràn đổ lưu chất. Thậm chí, chúng tôi còn thấy nhiều công ty không thực hiện những đề xuất của chính họ từ những sự cố rò rỉ hóa chất trước đó” [6].
Các quy định pháp luật và tiêu chuẩn quốc tế
Những sự cố công nghệ ngày càng nghiêm trọng đã buộc các cơ quan quản lý ban hành các quy định riêng về Quản lý an toàn công nghệ cho các công trình hóa chất và năng lượng.
Tại Hoa Kỳ, năm 1999, Cơ quan quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp OHSA, Bộ Lao động, đã ban hành Quy định bắt buộc xây dựng Hệ thống Quản lý An toàn Công Nghệ (PSM), hay còn gọi là OSHA PSM 1910.119, hệ thống này gồm 14 thành tố. Mục đích của PSM, là ngăn ngừa và giảm thiểu hậu quả của những rò rỉ nghiêm trọng hóa chất độc, dễ phản ứng, dễ cháy hoặc chất nổ”.
“Công nghệ” trong qui định này được định nghĩa là các hoạt động hoặc kết hợp các hoạt động sử dụng, tồn trữ, sản xuất, vận chuyển hoặc di chuyển hóa chất nguy hiểm tại cơ sở. Phạm vi áp dụng của qui định này là các cở sở có công nghệ với lượng hóa chất trong danh mục nguy hiểm và với lượng cao hơn khối lượng quy định.[7]. Với quy định này thì tất cả các công ty sản xuất và kinh doanh hóa chất đều phải xây dựng PSM.
Tại Châu Âu, sau sự cố rò rỉ chất Dioxin năm 1976 tại Seveso, nước Ý, các nước châu Âu đã thông qua Chỉ Thị SEVESO yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp trong hoạt động ngăn ngừa và giảm thiểu hậu quả của các sự cố hóa chất nghiêm trọng. Đến nay bản điều chỉnh mới nhất được EU thông qua là SEVESO III, năm 2012 [8].
Viện Hóa Học Hoa kỳ (AIchE) với đơn vị chuyên nghiên cứu về an toàn hóa chất là Trung Tâm an toàn công nghệ hóa chất (CCPS) vào năm 1989 đã lần đầu tiên xây dựng một bộ khung tương đối hoàn chỉnh của một hệ thống PSM, hệ thống này qua nhiều lần điều chỉnh, bao gồm 20 thành tố cơ bản. Ngày nay, rất nhiều công ty trong và ngoài Hoa Kỳ tham khảo CCPS PSM làm cơ sở để xây dựng hệ thống quản lý an toàn công nghệ của mình.
Xu hướng tại Việt Nam và trên thế giới
Mặc dù tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, PSM chưa phải là yêu cầu của luật pháp, nhưng các công ty hóa chất đã áp dụng các yêu cầu của PSM để bảo đảm sản xuất thường xuyên, giảm thiểu sự cố công nghệ.
Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam đã ban hành Quyết định 8483/QĐ-DKVN ngày 30 tháng 12 năm 2016 về Hướng dẫn thiết lập và áp dụng bộ chỉ số hiệu quả an toàn công nghệ cho các hoạt động lọc hóa dầu và chế biến khí [9].
Một số đơn vị tại Việt Nam đã tích cực xây dựng hệ thống quản lý an toàn công nghệ như Công ty lọc hóa dầu Bình sơn và một số đơn vị khác.
Kết luận
Mặc dù quản lý an toàn công nghệ là một lĩnh vực mới ở Việt Nam, nhưng nó là hướng đi đúng tất yếu cho các đơn vị sản xuất và kinh doanh hóa chất và dầu khí, vì nó được thiết kế riêng cho công tác ngăn ngừa và giảm thiểu hậu quả các thảm họa hóa chất và năng lượng. Áp dụng quản lý an toàn công nghệ là công tác cần thiết và cấp bách đối với các đơn vị sản xuất và kinh doanh hóa chất, dầu khí và xăng dầu.
Nguồn tham khảo:
[1] CCPS, Guideline for Risk Based Process Safety, John Wiley&Son, Inc., New Jersey, 2007
[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Deepwater_Horizon_oil_spill
[3] https://en.wikipedia.org/wiki/2015_Tianjin_explosions
[4] https://en.wikipedia.org/wiki/Visakhapatnam_gas_leak
[5] https://en.wikipedia.org/wiki/2020_Beirut_explosion
[7] https://www.osha.gov/laws-regs/regulations/standardnumber/1910/1910.119
[8] https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=CELEX:32012L0018
[9] Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Hướng dẫn thiết lập và áp dụng bộ chỉ số hiệu quả an toàn công nghệ cho các hoạt động lọc hóa dầu và chế biến khí, tháng 12, 2016
Dịch vụ liên quan của SEN: