Trong những năm qua, các ngành công nghiệp công nghệ đã dần phát triển một số mô hình quản lý tiếp cận trong việc phòng ngừa tai nạn và tổn thất liên quan đến hóa chất. Tại bất kỳ thời điểm nào, các ngành công nghiệp, công ty và nhà máy sẽ ở các vị trí khác nhau theo lưu đồ bên dưới. Trên thực tế, các phòng ban khác nhau trong một nhà máy, các chức năng khác nhau trong một bộ phận hoặc cùng chức năng của bộ phận tại các thời điểm khác nhau, có thể chọn thực hiện nhiều chiến lược tại cùng một thời điểm.

Hình – Sự phát triển của an toàn công nghệ và chiến lược phòng ngừa tai nạn/tổn thất
Quản lý an toàn công nghệ dựa vào tiêu chuẩn
Trong một thời gian dài, các công ty phụ thuộc rất nhiều vào các tiêu chuẩn dựa trên kinh nghiệm để định hướng công tác an toàn công nghệ và phòng ngừa tổn thất. Các tiêu chuẩn này bao gồm các thực hành nội bộ của công ty và các tiêu chuẩn, chẳng hạn như các tiêu chuẩn do ANSI, API, ASME và NFPA ban hành. Trong chiến lược quản lý an toàn công nghệ dựa vào tiêu chuẩn, tổ chức dựa vào việc áp dụng các thực hành về thiết kế, vận hành và bảo trì đã dần phát triển qua nhiều năm đã đúc kết kinh nghiệm (ví dụ, các sự cố tai nạn và tổn thất khác). Tuy nhiên, do các sự cố an toàn công nghệ rất hiếm khi xảy ra, nên chỉ dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ không thể đưa ra cảnh báo đầy đủ để ngăn ngừa tai nạn trong tương lai tại công ty.
Quản lý an toàn công nghệ dựa trên tiêu chuẩn là một cách tiếp cận rất dễ thực hiện; tuy nhiên, nó có thể dẫn đến một loạt thành tích vừa có tốt vừa có tệ. Để tuân thủ các quy tắc hoặc tiêu chuẩn đã được phê duyệt, các công ty có thể bị hạn chế các hoạt động về an toàn công nghệ, mặc dù có nhiều bất cập về công nghệ không được chỉ ra trong các tiêu chuẩn hoặc các tiêu chuẩn có thể không giải quyết được các vấn đề thất bại được phát hiện trong gần đây. Đối với nhiều công ty không phải tuân theo các yêu cầu bổ sung của liên bang hoặc tiểu bang, các tiêu chuẩn vẫn là cốt lõi của các chương trình phòng ngừa tai nạn và an toàn công nghệ. May mắn thay, các tổ chức tiêu chuẩn đã bắt đầu áp dụng các chính sách nhằm giúp đảm bảo các quy tắc và tiêu chuẩn được cập nhật thường xuyên, phản ánh kinh nghiệm và công nghệ mới. Một số tổ chức tiêu chuẩn cũng đã bắt đầu áp dụng các cách tiếp cận dựa trên hiệu suất và dựa trên rủi ro trong các nguyên tắc và tiêu chuẩn của họ để các công ty linh hoạt hơn trong việc quản lý rủi ro.
Quản lý an toàn công nghệ dựa vào sự tuân thủ
Trước những lo ngại của cộng đồng về tác động thực tế và tiềm ẩn của các vụ tai nạn nghiêm trọng liên quan đến ngành công nghiệp hóa chất, các cơ quan chính phủ đã ban hành các quy định để xác định yêu cầu tối thiểu của hoạt động phòng ngừa tai nạn công nghệ, nhằm bảo vệ người lao động, cộng đồng và môi trường. Nhiều quy định liên quan đến phòng ngừa tai nạn, bao gồm tiêu chuẩn quản lý an toàn công nghệ (PSM) của OSHA và quy định chương trình quản lý rủi ro (RMP) của EPA tại Hoa Kỳ và Chỉ thị Seveso II ở Châu Âu, là các quy định quản lý theo mục tiêu cho phép các công ty hoàn chỉnh công tác quản lý an toàn công nghệ để đưa rủi ro về mức chấp nhận được.
Trong một số trường hợp, việc đưa ra các yêu cầu tối thiểu có thể không đủ để quản lý rủi ro đầy đủ, mặt khác trong một số trường hợp, các công ty có thể đối mặt với các vấn đề an toàn công nghệ vượt tầm kiểm soát. Các quy định PSM và RMP đã thúc đẩy nhiều công ty thực hiện các hoạt động mới và đạt được những cải tiến hiệu suất an toàn đáng kể. Mặc dù điều này là xúc tác mang lại nhiều kết quả tích cực, các yếu tố tuân thủ quy định này cũng đã góp phần khiến một số công ty thông qua tư duy chỉ dựa vào tuân thủ.
Các quy định có xu hướng dựa trên kinh nghiệm và có tính đến các hạn chế về tài nguyên quốc gia. Theo đó, các tình huống có vẻ nguy hiểm trên lý thuyết nhưng không có đủ sự chú ý để ban hành thành quy định của quốc gia, có thể không được hướng dẫn giải quyết qua các quy định. Ngoài ra, các nhà máy chứa số lượng chất độc hại thấp hơn ngưỡng số lượng được nêu trong quy định không bị ràng buộc bởi tuân thủ an toàn công nghệ, mặc dù rủi ro vẫn tồn tại đối với các nhà máy này. Do đó, cách tiếp cận chỉ dựa vào tuân thủ không hẳn là chiến lược tối ưu cho một công ty hoặc nhà máy cụ thể.
Quản lý an toàn công nghệ dựa vào cải tiến liên tục
Cùng với sự phát triển đa dạng các chương trình quản lý chất lượng tổng thể, nhiều công ty áp dụng đẩy mạnh cải tiến liên tục – một thế mạnh của hoạt động tập trung vào chất lượng, vào các chương trình an toàn công nghệ. Có 3 lý do mà các công ty nhận ra rằng chỉ cố gắng duy trì các hoạt động phòng ngừa tai nạn hóa học hiện tại là không đủ. Đầu tiên, các công ty đã phát hiện ra rằng việc “giậm chân tại chỗ” về an toàn công nghệ có thể dẫn đến giảm hiệu suất. Thứ hai, các nhu cầu cạnh tranh toàn cầu đòi hỏi các công ty cần phải có phương án cải thiện chất lượng và giảm chi phí. Cuối cùng, kỳ vọng về an toàn của toàn xã hội không ngừng tăng lên và hầu hết các công ty dự định tuân thủ theo những kỳ vọng này để duy trì hoạt động là các thành viên được cộng đồng ủng hộ.
Kỳ vọng này đã dẫn đến việc kết hợp quan niệm cải tiến liên tục vào các chính sách về môi trường, an toàn và sức khỏe của nhiều công ty, “rút kinh nghiệm” đã mở ra một cách tiếp cận chủ động hơn, với kỳ vọng “nâng tầm cao mới”. Chiến lược dựa trên cải tiến liên tục truyền thống sử dụng các chỉ số thụ động (lagging) để xác định hiệu suất quá khứ và hỗ trợ hướng dẫn thay đổi hệ thống quản lý dựa trên các phản hồi. Mô hình này hoạt động tốt khi tồn tại một liên kết đối ứng cao giữa một quy trình kinh doanh và một hoặc nhiều chỉ số lagging. Tuy nhiên, chiến lược này có khả năng thất bại khi các chỉ số lagging là các sự kiện có tần suất xảy ra thấp, hậu quả nghiêm trọng như tai nạn thảm khốc. Khi thiếu các sự kiện gây tổn thất, không thể đảm bảo rằng hệ thống quản lý an toàn công nghệ đang hoạt động tốt.
Quản lý an toàn công nghệ dựa vào rủi ro
Theo cách tiếp cận quản lý an toàn công nghệ dựa vào rủi ro, tổ chức vẫn tuân thủ các yêu cầu quy định, áp dụng phù hợp các bài học rút kinh nghiệm từ công ty hoặc ngành và tiếp tục sử dụng các chỉ số lagging để định hướng chương trình an toàn công nghệ. Tuy nhiên, thông tin về rủi ro và các chỉ số chủ động (leading) cũng được Cấp quản lý xem xét để hỗ trợ đo lường và dự đoán hiệu suất đáng tin cậy của các khía cạnh khác nhau của hệ thống, không phụ thuộc vào bất kỳ sự kiện tổn thất nào. Thông tin về rủi ro cũng được sử dụng để xác định mức độ nỗ lực và sự chú ý của cấp quản lý phù hợp với các rủi ro đã được nhận diện. Xem xét lãnh đạo, một quy trình định kỳ của cấp quản lý nhằm xác định cách hệ thống quản lý thực sự hoạt động như thế nào, bổ sung đánh giá rủi ro và các số liệu.
Hiểu rõ về các mối nguy và rủi ro, giám sát bộ các chỉ số leading và lagging, và tiến hành xem xét lãnh đạo định kỳ giúp các nhà quản lý làm nổi bật các điểm mạnh, xác định điểm yếu và đưa ra hành động khắc phục kịp thời. Những thách thức chính trong việc chuyển sang chiến lược này là (1) xây dựng hiểu biết chi tiết và chính xác về rủi ro, (2) khó khăn ban đầu về mặt quản lý trong việc lựa chọn các chỉ số đo lường quản lý phù hợp, (3) đòi hỏi tính kỷ luật cần thiết để duy trì các chỉ số này, ( 4) phát triển sự tin cậy và tính toàn vẹn của tổ chức để đánh giá hiệu quả một cách thẳng thắn và (5) vượt qua những trở lực để thay đổi hệ thống quản lý dựa trên các số liệu dự đoán.
Các dịch vụ liên quan:
- Khóa Huấn luyện: Quản lý An toàn Công nghệ
- Dịch vụ: Tư vấn Quản lý An toàn Công nghệ